Theo báo cáo này, những người sản xuất và công nhân trong chuỗi cung ứng tôm tại Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng tiền lương giảm và nguy cơ lao động cưỡng bức ngày càng tăng. Một cuộc điều tra gần đây thông báo kết quả cho thấy kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, những người sản xuất và công nhân trong chuỗi cung ứng tôm tại Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng tiền lương giảm và nguy cơ lao động cưỡng bức ngày càng tăng. Báo cáo mới có tên “Lao động với mức lương thấp hơn để siêu thị thu được nhiều lợi nhuận hơn” được công bố sau khi các nhà nghiên cứu - làm việc với các nhóm nghiên cứu độc lập tại Việt Nam được giữ bí mật danh tính để bảo vệ danh tính của người lao động - đã trao đổi với những người nuôi tôm và công nhân từ tháng 7/2023 đến tháng 5/2024. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện hơn 150 cuộc phỏng vấn trên toàn ngành và phát hiện ra rằng những người lao động và nông dân trong ngành tôm của Việt Nam đang phải đối mặt với môi trường tài chính ngày càng khó khăn do giá tôm giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng lao động cưỡng bức.
Theo báo cáo, thu nhập thực tế của một công nhân chế biến tôm tại Việt Nam đã giảm từ 20 - 60% kể từ khi đại dịch Covid bắt đầu. Nguyên nhân sâu xa, theo báo cáo, là do các nhà bán lẻ và bán buôn đẩy giá tôm xuống thấp ngay cả khi những người sản xuất phải chịu chi phí sản xuất cao hơn. Katrina Nakamura, chủ sở hữu và điều hành tổ chức nghiên cứu The Sustainability Incubator và là tác giả của báo cáo, cho biết với SeafoodSource rằng chi phí cao và giá giảm vẫn tiếp tục ngay cả khi nhu cầu về tôm tăng. Nakamura cho biết trong một email: “Chúng tôi đã thu thập dữ liệu về thu nhập, chi phí và giá cả một cách bình đẳng từ người lao động và nhà sản xuất ở mọi cấp độ, sau đó tiếp tục thu thập dữ liệu về giá dọc theo phía thị trường của chuỗi cung ứng (thu nhập và chi phí khi có thể)”. “Dữ liệu trong nước đã xác nhận mức giảm thu nhập rất đáng kể ở mọi cấp độ kể từ khi xảy ra đại dịch đối với người lao động và nhà sản xuất tôm ngoài những người trung gian và công ty thức ăn chăn nuôi”. Sự sụt giảm thu nhập đó trên toàn ngành đang tác động đến những người nông dân ở mọi tầng lớp. Nakamura cho biết: “[Ngay cả] những người nông dân đã đầu tư vào các hệ thống siêu thâm canh và công nghệ mới cũng không thu được giá trị gia tăng như đã hứa, mà còn bị lỗ hàng năm do giá thấp”.
Khi giá giảm và các nhà sản xuất tôm tiếp tục gặp khó khăn, nghiên cứu về thị trường cho thấy các bộ phận khác của ngành tôm vẫn đang hoạt động tốt - trong trường hợp của một số nhà bán lẻ, thậm chí còn ghi nhận mức lợi nhuận chưa từng có, Nakamura cho biết.
“Theo kinh nghiệm, có vẻ như các nhà sản xuất và công nhân trong ngành tôm của Việt Nam đang trợ cấp cho những khoản lợi nhuận đó”, bà cho biết. “Việt Nam nổi tiếng với sự đổi mới, giá trị gia tăng và hiệu quả từ những người lao động có tay nghề cao. Những người lao động mà chúng tôi đã nói chuyện cho biết họ làm việc nhanh hơn và nhiều giờ hơn để cố gắng bù đắp thu nhập bị mất, nhưng không kiếm đủ tiền để tiết kiệm tiền”.
Báo cáo đưa ra sáu phát hiện chính: Thu nhập của người lao động tại Việt Nam đã giảm đáng kể kể từ khi xảy ra đại dịch, sự hợp nhất thị trường có thể khiến giá tôm bán buôn giảm, người nông dân đang bị ép buộc bởi chi phí cao hơn và giá thấp hơn, các công ty chế biến và thức ăn chăn nuôi lớn đang thuê các trung gian để mua tôm với giá thấp hơn, khả năng truy xuất nguồn gốc đầy đủ không tồn tại trong chuỗi cung ứng do bản chất của thị trường và “mối quan ngại rộng hơn” cho thấy thị trường có thể đang trở nên phi lý. Nakamura cho biết tình hình ở Việt Nam khác với những rắc rối mà ngành tôm Ấn Độ đang phải đối mặt, nhưng cũng gây lo ngại không kém cho quyền lao động.
Ngành công nghiệp tôm của Ấn Độ gần đây đã bị chỉ trích sau khi các báo cáo độc lập của Phòng thí nghiệm trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp, Associated Press và Outlaw Ocean tiết lộ nghi ngờ về tình trạng lạm dụng lao động và nhân quyền tại các công ty tôm Ấn Độ, với một người tố giác đã cung cấp cho SeafoodSource báo cáo trực tiếp về tình trạng lạm dụng lao động. Sau các báo cáo, Bộ Lao động Hoa Kỳ đã đưa tôm sản xuất tại Ấn Độ vào "Danh sách hàng hóa do lao động trẻ em hoặc lao động cưỡng bức sản xuất" năm 2024. "Ấn Độ và Việt Nam có thể đại diện cho hai thái cực của một loạt hậu quả từ cuộc đua xuống đáy để có được tôm ngày càng rẻ hơn. Trong trường hợp tôm từ Việt Nam, động lực của việc khai thác là đòn bẩy về giá cả ở phía nhập khẩu của thương mại, với dấu hiệu cho thấy động lực lớn nhất khiến tình hình tồi tệ hơn thực sự có thể là các thông số kỹ thuật mua sắm của các siêu thị lớn", Nakamura cho biết. "Các siêu thị lớn yêu cầu rất nhiều thông số kỹ thuật tốn kém nhưng dường như đã trả giá cho tôm thấp hơn mức giá tôm Việt Nam đáng nhận được".
Mặc dù là một trong những nhà sản xuất tôm nuôi quan trọng nhất thế giới, nhưng ngành tôm ở Việt Nam không phải là không có vấn đề. Một trong những vấn đề cấp bách nhất trong số này gần đây đã được đưa ra ánh sáng bởi một nghiên cứu độc lập, trong đó nêu bật vai trò của các siêu thị phương Tây trong việc đưa ra mức giá không công bằng cho nông dân đối với sản phẩm của họ, tác động trực tiếp đến tình trạng lao động không được trả lương, bóc lột và vi phạm nhân quyền trong ngành. Báo cáo do các nhà nghiên cứu độc lập tại Việt Nam thực hiện đã phát hiện ra rằng người lao động trong ngành tôm Việt Nam dễ bị bóc lột lao động tràn lan và mức lương thấp trong khi đồng thời, các chuỗi siêu thị mua sản phẩm của họ để bán lẻ đang thu được biên lợi nhuận đáng kể.
Cụ thể, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng một số ít các công ty lớn, hợp nhất có ảnh hưởng lớn đến giá cả trong chuỗi cung ứng tôm, đẩy giá xuống và thường xuyên thay đổi nguồn cung ứng để tìm tôm ở mức giá thấp nhất. Những công ty này thuê trung gian để mua tôm với giá thấp hơn, sử dụng các lợi thế của họ để có được khối lượng tôm lớn với giá rất thấp, dẫn đến thu nhập kém cho người sản xuất và điều kiện bóc lột cho người lao động. Theo báo cáo, việc các nhà bán lẻ lớn hơn sử dụng trung gian này cũng dẫn đến khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm kém hơn. Báo cáo tiếp tục chỉ trích sự thiếu trách nhiệm của các nhà bán lẻ phương Tây, những người thường đưa ra những tuyên bố táo bạo về nguồn cung ứng và chứng nhận có đạo đức. Các nhà nghiên cứu nêu chi tiết các khuyến nghị thiết yếu cho các nhà bán lẻ và nhà hoạch định chính sách, bao gồm nhu cầu các nhà bán lẻ phải đáp ứng cả tiêu chuẩn lao động của Việt Nam và quốc tế bằng cách trả giá cho tôm phản ánh đúng chi phí sản xuất thực tế và chính phủ phải đảm bảo rằng các tập đoàn trong nước không hưởng lợi từ lao động không được trả lương trong chuỗi cung ứng của họ thông qua các hoạt động mua sắm của họ.
Theo Seafood Source, The Fishsite
Bình luận